Thường thức

Kỹ thuật đo độ cao của đỉnh Everest

Đỉnh Everest, thứ hai từ trái sang. Ảnh: Pavel Novak-Theo “Live Science”, việc đo độ cao của một ngọn núi chỉ cần các phép toán chung. Để tính chiều cao của một ngọn núi, chỉ cần đo khoảng cách giữa hai điểm trên mặt đất, sau đó đo góc giữa đỉnh núi và mỗi điểm.

“Nếu bạn biết hai góc, góc thứ ba là do tổng ba góc của tam giác bằng 180 độ, vì vậy đây là điểm”, Peter Molnar, nhà địa chất tại Đại học Colorado, nói.

Để thực hiện các phép đo này, nhân viên trắc địa phải xác định mặt phẳng đặt nằm ngang bằng thước chia độ (thước có bọt khí trong nước. Nếu mặt phẳng nằm ngang của quả bóng nằm ở tâm thước và hơi nghiêng về một phía thì quả bóng sẽ được đặt ở đó Chạy bên) – Sau đó họ sẽ xác định để đo góc bằng một thước đo góc rất chính xác gọi là nhiệt kế. Biết hai góc và một cạnh của tam giác, sử dụng các hàm lượng giác sẽ tính được các cạnh còn lại và chiều cao của tam giác hoặc chiều cao của ngọn núi.

Đây là phương pháp của Sir Welsh Rafia George, nhà khảo sát địa lý và địa lý. Everest đo chiều cao của ngọn núi cao nhất trong dãy Himalaya vào những năm 1840.

Để hạn chế sự nhầm lẫn, nhóm các nhà địa lý đã tiến hành đo đạc nhiều lần ngọn núi từ các vị trí khác nhau dưới chân núi và lấy trung bình kết quả. Kết quả, độ cao chính xác nhất của đỉnh Everest là 8.839 mét, Morna cho biết.

Tuy nhiên, “Họ nghĩ sẽ không ai tin điều đó, vì vậy họ đã thêm 0,6 mét, trông đáng tin cậy hơn.” Chiều cao chính thức của đỉnh Everest là 8848 mét, được thu thập sau một cuộc khảo sát năm 1955. Phiên bản này Nhận được sự hỗ trợ rộng rãi từ các vệ tinh. Khi một vệ tinh gửi tín hiệu đến một tháp thu trên mặt đất, nó có thể tính toán vị trí của điểm tại một vị trí nhất định trong một hệ tọa độ chính xác cao.

Tính toán này dựa trên tốc độ của tín hiệu vô tuyến (bao gồm cả tốc độ ánh sáng) và vị trí của vệ tinh so với trung tâm của trái đất tại một thời điểm đã biết .. Vì các tháp thu nằm gần đỉnh Everest nên chúng có thể đo chiều cao chính xác hơn.

Ngoài ra, vì trái đất hình cầu nên hai điểm của trái đất dùng để đo điểm xa nhất, còn điểm còn lại thì độ chính xác không cao. Sai số tỷ lệ với khoảng cách giữa hai điểm và bán kính trái đất.

Trái đất cũng hơi cong ở xích đạo. Các cực cách tâm đường xích đạo khoảng 26 km, do đó, nhân viên trắc địa cần bổ sung một hiệu chỉnh khác, bao gồm cả sai số mực nước biển.

Sai số mực nước biển-Một nguyên nhân khác của lỗi là mực nước biển, nơi dữ liệu được sử dụng để tính độ cao. Khoảng cách giữa tâm trái đất và các bờ biển khác nhau là không đồng nhất trên thế giới, không chỉ do điều kiện gió và thời tiết, mà còn do sự phình ra của quỹ đạo. Theo Mohnar. Hơn nữa, trái đất không bằng phẳng, và các khu vực rộng lớn như đồi núi làm thay đổi trọng lực của khu vực xung quanh.

“Nếu điểm chuẩn là mực nước biển ở Kolkata, Nepal hoặc Mumbai, kết quả sẽ khác”, Monar nói.

Ngày nay, các nhà địa chất sử dụng các biểu thức toán học để ước tính mực nước biển, họ tưởng tượng Điều gì sẽ xảy ra nếu không có gió và thủy triều, và tất cả nước chảy từ đại dương vào lục địa qua các kênh hẹp. – Điều này sẽ tạo ra một hình cầu lý tưởng. Theo Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia (NOAA), một điểm bất thường thể hiện mực nước biển trung bình mà từ đó độ cao được đo, nhưng theo Mohnar, “tất cả các độ cao đều có thể bị sai số” .- — Ruan Qingming

Leave a Comment

Your email address will not be published.

You may also like